0918481497

Loading the content... Loading depends on your connection speed!

Thông tin y học về ung thư dạ dày

MUỐI : KỂ THÙ LỚN CỦA UNG THƯ DẠ DÀY

Ung thư dạ dày : 870.000 trường hợp mới mỗi năm trên thế giới. 7000 trường hợp mới ở Pháp. Ở Pháp, tỷ lệ tử vong của ung thư dạ dày đã được chia 4 từ năm 1950, và tỷ lệ mắc bệnh này cũng thụt lùi rõ rệt. Nhiều thủ phạm đã được nhận diện, như việc tiêu thụ nhiều muối, ăn các thức ăn được hun khói hay ngâm nước muối. Việc giảm rõ rệt tỷ lệ mắc phải ung thư dạ dày, một phần, thường được gán cho sự xuất hiện của tủ lạnh, đã làm cho việc hun khói (fumage) và ướp muối (salage) để bảo quản thức ăn trở thành vô ích. Ở Nhật Bản, nơi cá sống và rau ngâm muối rất được tiêu thụ, nên tỷ lệ ung thư dạ dày vẫn cao. Dẫu sao, mối liên hệ giữa ung thư dạ dày với việc tiêu thụ quá nhiều muối là không còn nghi ngờ gì nữa. Người ta đã có thể ước tính rằng nguy cơ bị ung thư dạ dày được nhân lên 1,5 đến 6,2 lần đối với những người tiêu thụ quá nhiều muối. Mặc dầu nước muối đã không còn được dùng nữa, nhưng đôi khi vẫn khó có thể thoát khỏi NaCl, được chứa trong nhiều thức ăn (các món ăn được nấu…) Và các thịt rất mặn như thịt lợn nhân gấp đôi nguy cơ bị ung thư dạ dày. Ở Pháp, mặc dầu mức độ trung bình tiêu thụ muối đã giảm 5% trong 6 năm, nhưng sự tiêu thụ vẫn còn cao : gần 8g mỗi ngày, trong khi lượng muối được khuyến nghị là 5g.

Về mặt phòng ngừa, người ta biết rằng các trái cây (tất cả nhưng đặc biệt là cam quýt) và các loại rau (tất cả nhưng tốt hơn là tỏi tây, hành) đều có một tác dụng bảo vệ. Trong những năm qua, vai trò của một vi khuẩn, Helicobacter pylori, cũng đã được nhận diện. “ Không có vi khuẩn, không có ung thư ”, Groupe d’études françaises des Helicobacter (GEFH) đã xác nhận như thế, bởi vì ung thư chỉ phát triển với sự hiện diện của vi khuẩn này. Một trị liệu bằng kháng sinh đơn giản và nhanh chóng trong vòng 7 ngày cho phép làm biến mất vi khuẩn Helicobacter. GEFH chủ trương thực hiện các sinh thiết một cách có hệ thống trong khi thực hiện nội soi dạ dày và không chỉ, như những khuyến nghị chính thức chủ trương, nơi những người được gọi là có nguy cơ bởi vì có một tiền sử gia đình.
SCIENCES ET AVENIR 4/2008

MỐI LIÊN HỆ GIỮA H. PYLORI VÀ UNG THƯ DẠ DÀY SAU CÙNG ĐƯỢC PHÁT HIỆN

Trong khi Helicobacter pylori hiện diện nơi hầu hết các cá thể, nhưng tại sao chỉ có một số nhỏ phát triển bệnh loét mà thôi ? Để trả lời câu hỏi này, những nhà nghiên cứu người Anh gợi ý rằng, nơi những người không có triệu chứng, vi khuẩn gây nên một đáp ứng thích đáng của những tế bào miễn dịch hủy diệt loại T (cellules immunitaires de type T suppressives) ; đáp ứng này góp phần mang lại sự chung sống hòa bình của ký chủ và vi khuẩn. Luôn luôn theo giả thuyết này, bệnh loét (maladie ulcéreuse), trái lại, là kết quả của sự bất túc hay sự vắng mặt của cơ chế miễn dịch bình định (mécanisme immunitaire pacificateur) này.
Cách nay hơn 25 năm, Warren và Marshall, hai nhà nghiên cứu người Úc được giải Nobel năm 2005, đã khám phá trong niêm mạc dạ dày sự hiện diện của một vi khuẩn kháng acide, H.pylori, và đã phát hiện vai trò trung tâm của nó trong sự phát sinh và duy trì những thương tổn loét của dạ dày. Nhờ những nghiên cứu cơ bản này, những điều trị kháng sinh và các inhibiteurs de la pompe à protons đã cho phép chữa lành bệnh loét dạ dày. Tuy nhiên vẫn còn một câu hỏi chưa được giải đáp : tại sao phần lớn những người bị nhiễm trùng bởi Helicobacter pylori vẫn không có triệu chứng ? Câu trả lời dường như là loại và chất lượng của đáp ứng miễn dịch giữa ký chủ và vi trùng.

PHÂN TÍCH ĐÁP ỨNG MIỄN DỊCH

Vì nhu cầu của công trình nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đã tiến hành một nội soi dạ dày với lấy mẫu sinh thiết nơi niêm mạc vùng hang (antrum) dạ dày của 82 bệnh nhân, trong số đó 32 dương tính đối với H.pylori và 44 không mang vi khuẩn. Sau đó, họ kích thích các tế bào của những bệnh nhân không mang vi khuẩn với những kháng nguyên vi khuẩn, rồi phân tích và định lượng đáp ứng miễn dịch bảo vệ. Họ đã so sánh đáp ứng này với đáp ứng được tìm thấy nơi những người bị nhiễm khuẩn và bị loét. Phân tích này phát hiện sự hiện diện, nơi những người dương tính đối với H.pylori và có các vết loét, một số lượng cao hơn một cách đáng kể các tế bào phụ trợ (T auxillaires hay T helper) Th1 và Th2 và một số lượng ít hơn nhiều các tế bào hủy bỏ (cellules suppressives), so sánh với những bệnh nhân không có triệu chứng.

VAI TRÒ THIẾU HỤT CỦA CÁC TẾ BÀO MIỄN DỊCH BÌNH ĐỊNH

Trên cơ sở những điều chứng thực này, các nhà nghiên cứu sau đó đã thiết lập một sơ đồ lý thuyết về những cơ chế cho phép giải thích tại sao một vài bệnh nhân bị loét trong khi những bệnh nhân khác thì không có triệu chứng. Nơi những người bị loét dạ dày, số lượng những tế bào phụ trợ Th1 và Th2 cao hơn gây nên một phản ứng viêm mạnh mẽ hơn nhiều, mặc dầu cho phép chống lại tốt hơn tác nhân vi khuẩn nhưng, bù lại, cũng gây nên những thương tổn mô quan trọng hơn. Tuy nhiên, yếu tố sẽ làm các loét dạ dày phát triển là ở sự việc rằng các tế bào miễn dịch huỷ diệt loại T (cellules suppressives), mà vai trò là dập tắt đám cháy, có số lượng và hiệu quả ít hơn nhiều nơi những bệnh nhân bị loét so với những bệnh nhân không có triệu chứng.

NHỮNG KẾT QUẢ CỦA NHỮNG KHÁM PHÁ NÀY

Như vậy, những triển vọng điều trị mới được mở ra, với hy vọng ngăn chặn tốt hơn bệnh loét dạ dày tá tràng. Thí dụ, người ta hy vọng một ngày nào đó có thể đánh giá mức độ hoạt tính của các tế bào hủy bỏ (cellules suppressives) để xác định xem những người nào bị nhiễm trùng bởi H.pylori là có nguy cơ nhất phát triển các loét dạ dày. Điều này cho phép gia tăng hiệu năng của công tác điều tra phát hiện và tránh được những điều trị kháng sinh vô ích. Ngoài ra, nếu người ta hiểu được những cơ chế gây nên sự gia tăng các tế bào hủy bỏ sau nhiễm trùng bởi H.pylori, người ta sẽ có thể hiệu chính các vaccin mà mục đích sẽ là làm gia tăng trong niêm mạc dạ dày, số lượng những tế bào bình định (cellules pacificatrices).

                                                                        Thời Sự Y Học Số 105 – BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 11/12/2008 ) 

/ TẠI SAO CÀNG NGÀY CÀNG CÓ NHIỀU UNG THƯ ? 

Giáo Sư Maurice Tubiana,
Thầy thuốc chuyên khoa ung thư
,
Hội viên của Viện Hàn làm Y Học quốc gia

Từ năm mươi năm qua, số các trường hợp ung thư đã gia tăng ở Pháp, do sự gia tăng dân số, từ 45 triệu năm 1950 lên 65 triệu hôm nay, và là do sự kéo dài của tuổi thọ, từ 59 lên 81 tuổi. Thế mà ung thư, thường hiếm trước 45 tuổi, sau đó gia tăng với tuổi tác. Ngoài ra, sự khám nghiệm thăm dò (dépistage) phát hiện những ung thư nhỏ không tiến triển ; những ung thư này đáng lý ra đã không bao giờ được phát hiện ; việc phát hiện những vi ung thư (microcancer) hiền tính này là cái giá phải trả để chẩn đoán sớm các ung thư tiến triển. Những sự kiện này giải thích rằng, mặc dầu sự gia tăng số các trường hợp ung thư, tỷ lệ chết vì một ung thư mỗi năm đã giảm nơi các phụ nữ khoảng 0,5% và ở Pháp đó là một trong những tỷ lệ thấp nhất trên thế giới. Mặt khác, các người Pháp có một trong những tuổi thọ dài nhất trên thế giới, điều này chứng tỏ rằng môi trường và điều trị nằm trong số những nước tốt nhất.

Để đi xa hơn, phải xem xét tiến triển của những loại ung thư khác nhau. Số các trường hợp ung thư vú đã gia tăng, vì nhiều lý do : trước hết có một sự gia tăng tỷ lệ của các phụ nữ tăng thể trọng (surpoids), điều này làm dễ tỷ lệ mắc phải những ung thư này sau thời kỳ mãn kinh. Sau đó, một thai nghén trước 25 tuổi làm giảm nguy cơ của ung thư vú. Thế mà ngày nay, hơn một nửa những thai nghén đầu tiên xảy ra sau 30 tuổi ; sau cùng, có những điều trị bằng hormone thay thế của chứng mãn kinh, cần phải giới hạn vào những trường hợp cần thiết về mặt y khoa. Tuy vậy, từ năm 1990, tỷ lệ tử vong do ung thư vú giảm , nhờ những chẩn đoán sớm hơn và nhờ những điều trị hiệu quả hơn. Tần số của những ung thư khác đã giảm : tỷ lệ mắc phải ung thư dạ dày được chia 5 từ năm 1950, mặc dầu dạ dày là tạng bị tiếp xúc nhất với các chất gây ung thư hiện diện trong thức ăn. Sự giảm tỷ lệ ung thư dạ dày là do một chế độ ăn uống giàu các sản phẩm tươi hơn và do sự điều trị chống lại các nhiễm trùng dạ dày.

Ung thư cổ tử cung vào năm 1939 là ung thư thường xảy ra nhất nơi phụ nữ ; loại ung thư này gần như đã biến mất nơi các phụ nữ thực hiện đều đặn những frottis cổ tử cung-âm đạo ; than ôi ! ¼ các phụ nữ không thực hiện những xét nghiệm này, đôi khi vì những lý do văn hóa. Trong những trường hợp này, cần phải nhờ đến sự tiêm chủng chống lại virus papillome vào tuổi dậy thì. Cũng cần khẩn trương tiêm chủng một cách có hệ thống các thiếu niên chống lại viêm gan B, là nguồn gốc của ung thư gan, những loại ung thư này ở Pháp tương đối thường xảy ra.

Nơi các người đàn ông, nguy cơ chết vì một ung thư đã gia tăng từ năm 1950 đến 1990, rồi đã giảm khoảng 1% mỗi năm, nhưng tuy vậy nguy cơ chết vì ung thư vẫn là một trong những nguy cơ cao nhất ở Châu Âu. Tiến triển này theo tiến triển của sự tiêu thụ thuốc lá và rượu, là nguyên nhân của ½ của những ung thư nam giới (1/4 của các ung thư nữ giới). Ở Pháp, chỉ có sự gia tăng giá cả, với điều kiện ít nhất là 10%, mới có thể làm hạ chứng nghiện thuốc lá. Cần khẩn trương thực hiện điều đó và chống lại chứng nghiện rượu.

Nhưng số các trường hợp ung thư mới đã gia tăng từ năm 1985. Môi trường thường được quy trách nhiệm nhưng những công trình nghiên cứu được tiến hành bởi Trung tâm quốc tế nghiên cứu về ung thư (CIRC) cho thấy rằng ảnh hưởng của môi trường là thấp. Ngược lại, các ung thư tuyến tiền liệt (cancer de la prostate) đã trở nên thường xảy ra hơn mặc dầu tỷ lệ tử vong lại giảm. Sự gia tăng này là do việc đưa vào xét nghiệm định lượng PSA, không những cho phép chẩn đoán sớm nhưng cũng cho phép phát hiện những bệnh hiền tính của tuyến tiền liệt. Hơn một nửa các người đàn ông trên 60 tuổi có những ung thư nhỏ không tiến triển, vẫn trong tình trạng ngấm ngầm không triệu chứng. Vậy đúng là PSA dẫn đến một sự phát hiện gia tăng số các trường hợp ung thư tiến triển.

Rốt cục chỉ có số các trường hợp lymphome non hodgkinien đã gia tăng mà người ta không biết tại sao. Ngoài việc đấu tranh chống lại thuốc lá và rượu, chỉ cần cho áp dụng những quy tắc vệ sinh là đủ : theo dõi thể trọng, tập thể dục (5 giờ mỗi tuần), hạn chế sự tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, giới hạn việc cho hormone vào những trường hợp được biện minh về mặt y khoa. Điều này đòi hỏi sự can đảm về phía các thầy thuốc và của Nhà nước, nhưng cũng đòi hỏi một thông tin hợp lý.
(LE FIGARO 15/3/2010)

Bài viết liên quan